Lịch sử Kon_Tum_(thành_phố)

Hình thành

Chợ Kon Tum và cầu tạm vượt sông Đắk Bla những năm đầu thập niên 1930, hình đăng trên Nam Phong tạp chí số 194 xuất bản năm 1934.

Theo truyền thuyết của người Ba Na, ở vùng đất nay là xã Chư Hreng - TP Kon Tum có một làng nằm bên cạnh dòng sông Đăk Bla với tên gọi Kon Trang - Or. Lúc ấy, làng Kon Trang - Or rất thịnh vượng với dân số khá đông. Nhưng trong làng bắt đầu có mâu thuẫn về việc chiếm đoạt của cải và bắt người về làm nô lệ. Hai con trai của một trong số những người đứng đầu làng là Jơ Rông và Uông, vì không thích cảnh tranh đoạt đã cùng người của mình chuyển ra ở riêng, họ đều làm nhà gần một hồ nước nằm cạnh sông Đăk Bla. Địa điểm này rất thuận lợi cho phương thức sống định cư, nên dần dần có nhiều người đến ở, ngày một phát triển thêm đông, lập thành làng mới với tên gọi là Kon Tum. Theo tiếng Việt, Kon Tum có nghĩa là Làng Hồ (Kon là làng, Tum là hồ, ao, bàu nước,...). Từ đó, Kon Tum trở thành tên gọi chính thức cho một làng mới lập của người Ba Na, cạnh dòng Đăk Bla, nơi có nhiều hồ nước trũng.[2]

Trong sách “Les Jungles moïs” xuất bản năm 1912 của tác giả Henri Maitre có nói rằng trước năm 1848, đã có người Chăm, người Trung Hoa, người Khơ me và người Kinh lui tới vùng đất Kon Tum. Song chỉ người Chăm và người Khơ me thì còn để lại dấu vết lúc bấy giờ, như đường đi lên núi, di tích mộ, tàn tích bàn thờ, ít tượng đá Chăm, cách thức làm ruộng từng tầng ở trên núi.[3]

Người Kinh đến định cư, lập nghiệp (1850)

Cuối đời vua Thiệu Trị, rồi kế đến là vua Tự Đức lên ngôi (1847) nhà Nguyễn ra sắc chỉ "Bình Tây Sát Tả" bố ráp đạo Thiên Chúa. Các nhà truyền giáo người Pháp phải chạy đến Bình Định để trốn tránh sự kiểm soát gắt gao của triều Nguyễn, việc truyền giáo trở nên khó khăn. Đứng trước tình thế đó, Đức Giám mục địa phận Qui Nhơn là Stéphan Cue'not đã cử nhiều thừa sai tìm đường lên vùng cao nguyên (lúc đó còn là rừng núi hoang sơ rậm rạp có rất nhiều thú dữ và chưa có sự kiểm soát của nhà Nguyễn) để lánh nạn và đồng thời tiếp tục truyền đạo nhưng đa số là thất bại.

Đến tháng 4 năm 1848, một linh mục người Việt là Nguyễn Do đã tìm ra con đường đi qua trạm Gò ở phía Bắc An Khê để tránh con đường độc đạo qua An Sơn (An Khê) luôn bị quân triều đình nhà Nguyễn canh giữ nghiêm ngặt. Trong vai một người lái buôn, sau đó ông xin làm người giúp việc cho một người lái buôn khác, nhờ vậy ông phát hiện ra vùng đất Kon Tum. Năm 1850, Nguyễn Do dẫn một phái đoàn gồm có linh mục Hoàng (Fontaine), Phêrô (P.Combe) và bảy linh mục khác cùng một số học trò người Kinh lên Kon Tum. Đến đây, họ bỏ tiền để chuộc một số người Kinh (phần lớn là người Quảng Nam, Quảng Ngãi) là nạn nhân của các cuộc đánh cướp nô lệ đang sống trong các làng người Xê Đăng, rồi chiêu mộ người Kinh theo đạo Thiên Chúa ở đồng bằng muốn tránh sự truy nã của triều đình, để thành lập những làng người Kinh tại đây.[4]

Lớp người đầu tiên này thấy nơi xứ lạ, đất đai phì nhiêu dễ bề sinh nhai nên họ đã liên lạc với người thân ở đồng bằng (Bình Định, Quảng Ngãi) đưa lên lập nghiệp, rồi dần người đông đúc họ lập nên làng người Kinh đầu tiên ở Gò Mít, lấy tên là làng Trại Lý vào năm 1874, sau đổi thành làng Tân Hương, buổi đầu chỉ có 15 hộ và 100 khẩu.

Đến năm 1933, khu vực xung quanh thành phố Kon Tum ngày nay có 10 làng người Kinh, trong đó có 8 làng theo đạo Thiên Chúa giáo: làng Tân Hương (1874), làng Phương Nghĩa (1882), làng Phương Quý (1887), làng Phương Hòa (1892), làng Phụng Sơn (1924), làng Ngô Thạnh (1925), làng Ngô Trang (1925), và 2 làng không theo đạo: Làng Trung Lương (1914) và làng Lương Khế (1911).[5]

Giai đoạn những năm 1910-1930

Trung tâm thị xã Kon Tum năm 1972. Ba con đường song song lần lượt từ trái qua phải là Phan Chu Trinh, Lê Lợi, Lê Thánh Tôn (nay là Trần Hưng Đạo)

Dân số thành phố Kon Tum năm 1884 ước khoảng 500 người, năm 1922 – 3.067 người và 1933 – 5.000 người. Sau nửa thế kỷ, dân số thành phố đã tăng lên khoảng 10 lần. Tuy nhiên, đóng góp chủ yếu vào việc tăng dân số thành phố là do các luồng di dân từ đồng bằng lên sinh cơ lập nghiệp hơn là do tăng tự nhiên.[6] Về thương mại, giai đoạn thập niên 1910-1930, các ngành nghề ở Kon Tum hầu như không đáng kể. Đây có thể là hậu quả của chính sách hạn chế buôn bán giữa miền xuôi với Tây Nguyên hồi cuối thế kỷ XIX và tình trạng yếu kém của mạng lưới giao thông nội vùng và liên vùng. Năm 1908, quãng đường từ Pleiku qua Kon Tum là 54 km mà phải đi mất một ngày rưỡi. Sau năm 1930 thì việc đi lại giữa Kon Tum và Quy Nhơn thuận lợi hơn nhờ việc mở rộng đường sá và xây dựng một số cầu bằng xi măng dọc tuyến. Chợ Kon Tum là nơi tập trung buôn bán chính của thành phố, chủ yếu là các sản vật từ rừng núi và từ vườn gia đình. Các sản vật dưới đồng bằng cũng được mang lên thành phố trao đổi với người Thượng và người Lào.[7][8]

Ngày 3 tháng 12 năm 1929, người Pháp ra nghị định thành lập thành phố Kon Tum (centre urbain). Theo mô tả của tác giả Võ Chuẩn năm 1934 thì thành phố có bề dài khoảng 2 km, bề rộng khoảng 400 mét. Khu vực nội thị có 4 làng: Tân Hương, Phương Nghĩa, Trung Lương và Lương Khế. Nhà dân thường làm kiểu có gác, lợp ngói, lát gạch mà theo ông Võ Chuẩn đánh giá thì "nhiều thành phố ở trung châu cũng ít được sạch sẽ và tươm tất như thế". Các cơ sở tôn giáo gồm có nhà Đức cha (nhà thờ chính tòa và tòa giám mục), hai nhà thờ lớn là Tân Hương và Phương Nghĩa, bên cạnh đó là các trường đạo như Cue'not, trường nữ học Sainte-Thérèse; một am bà và chùa Linh Sơn (sau đổi tên thành Bác Ái) đang được xây dựng. Các công sở trong thành phố gồm có tòa công sứ, nhà thương (bệnh viện), sở điện báo, đồn lính khố xanh, 2 nhà lao (nhà tù), ngoài ra còn có rạp chiếu bóng và rạp hát. Việc chiếu sáng của thành phố dựa vào ba máy phát điện: một máy tại tòa công sứ dùng để thắp sáng công sở, nhà thờ và đèn đường xung quanh; một máy của ông Maulini dùng thắp sáng hai khách sạn của ông ta (Auberge des Trois Chevaus và Bungalow), một số nhà dân lân cận và các con đường xung quanh đó. Máy thứ ba tại nhà giám mục Martial Jannin thắp sáng vùng xung quanh.[9]

Theo ghi chép của Võ Chuẩn, các quan chức người Pháp lúc này gồm có: quan công sứ; quan phó công sứ kiêm chức kho bạc; quan tư khố xanh (kiêm chức cảnh sát, thú y, quản lý thị trường và kiểm lâm); 1 quan khố xanh coi lao; quan thầy thuốc lúc trước là người Pháp, sau thay bằng người Việt. Ngoài ra còn có ông Maulini và vợ, lúc trước làm quan đồn khố xanh, sau thôi việc về làm thầu xây dựng, đồng thời làm chủ 2 khách sạn trong thành phố. Trại lính khố đỏ có 1 quan ba, 1 quan hai, 1 quan một, 6 viên đội. Người Việt làm trong các công sở khoảng chừng 30 người.[10]

Theo mô tả của hai tác giả Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi vào thời điểm năm 1933 thì Kon Tum “Phố phường ở rải rác trên bốn, năm con đường”, đặc biệt là khu vực gần sông Đăk Bla “đường sá rộng rải, phố xá ngay thẳng. Ban đêm đèn điện sáng choang. Quang cảnh không kém mấy thành phố ở dưới trung châu”. Thành phố Kon Tum lúc này được chia thành hai khu: khu phía Tây là nơi tập trung các cơ quan hành chính và khu phía Đông là vùng tập trung sinh sống của dân cư.[11]

  • Về cảnh quan hai bên đường Phan Đình Phùng (dùng theo tên gọi hiện nay, thời điểm đó các con đường vẫn chưa được đặt tên), chủ yếu là rừng rậm và xen lẫn đồng hoang. Đoạn từ trường THCS Lý Tự Trọng cũ đến đầu cầu Đak Bla là nơi tập trung nhà ở của các quan lại và cơ quan hành chính tỉnh[12] (khu phía Tây thành phố - theo cách gọi của Nguyễn Kinh Chi, Nguyễn Đổng Chi). Khu vực ngã tư Phan Đình Phùng – Phan Chu Trinh ngày nay vào năm 1914 được phát quang để thành lập làng Trung Lương (đến nay vẫn còn di tích đình Trung Lương ở dọc ven đường Phan Đình Phùng). Từ đây đổ lên phía Bắc đều là rừng rậm. Dấu tích của các cánh rừng đó ngày trước vẫn còn nhận thấy qua những cây lớn như gốc Dong (ngã tư Phan Đình Phùng – Lê Lợi), trong khuôn viên Sở Y tế, chi cục kiểm lâm…
  • Đường Nguyễn Huệ: là một trong hai con đường lớn nhất (cùng với đường Phan Đình Phùng), “sầm uất” nhất, và đồng thời là trục Đông – Tây của thành phố. Với lợi thế chạy dọc theo bờ sông Đak Bla, đường Nguyễn Huệ là nơi cư trú ưa thích của người dân đương thời. Chính ngôi làng Việt đầu tiên – làng Tân Hương (Gò Mít, Trại Lý) – được thành lập sớm nhất (năm 1874) ở dọc theo con đường này. Đường Nguyễn Huệ nối liền khu phía Tây thành phố (khu hành chính, công sở) với khu phía Đông (khu Tân Hương, Phương Nghĩa), đi ngang qua khu dân cư dọc hai ven đường. Năm 1910, khi đặt chân tới mảnh đất Kon Tum, Henri Maitre đã miêu tả cảnh quan đường Nguyễn Huệ như sau: “Khu dân cư có tên Kon Tum nằm về phía đông cánh đồng tuyệt vời Reungao; gồm những chòm xóm nối nhau chạy dài như chuỗi tràng hạt nằm hai bên con đường cái căng như kẻ chỉ giữa hai đầu khúc sông uốn cong của con sông Bla…”[13]
Hai người lính VNCH chốt gác trên đường Lê Thánh Tôn (nay là Trần Hưng Đạo). Ảnh chụp vào tháng 4 năm 1972.
  • Đường Trần Phú: là con đường từ thành phố đi lên Đak Cấm, nhưng con đường này có thể mở muộn hơn, vào cuối những năm 1930. Quang cảnh hai bên đường Trần Phú vẫn còn là những cánh rừng rậm rạp. Đến năm 1938, khi làng Võ Lâm thành lập, nơi này mới dần có người đến ở, tuy vậy, quang cảnh vẫn còn rất hoang vu. Theo miêu tả của các giáo dân Võ Lâm đi nhà thờ Tân Hương làm lễ thì “Thời đó muốn đi lễ nhà thờ Tân Hương, phải đi bộ qua những cánh rừng xoài, mít, rừng cây… theo những con đường mòn, rất sợ hãi. Vào dịp lễ Sinh Nhựt (Giáng sinh), từ trưa phải dỡ cơm mang theo đến xin ngủ nhờ nhà người quen gần nhà thờ Tân Hương, để đến nửa đêm dự lễ Sinh Nhựt, đêm hôm đó ngủ lại đến sáng mai mới khăn gói trở về nhà. Còn học sinh đi học trường Têrêxa gần nhà thờ Tân Hương, phải đem theo cơm trưa ở lại học cho tiện, vì đường sá cách trở”.[14] Dọc đường Trần Phú hiện nay, trong khuôn viên Hội trường Ngọc Linh vẫn còn một gốc đa cổ thụ, chính là dấu tích còn lại của các cánh rừng đầu thế kỷ XX.
  • Đường Bà Triệu: là đường đi vào nhà thương tỉnh lúc bấy giờ. Đường Bà Triệu đoạn nối Phan Đình Phùng – Trần Phú lúc này là một con đường nhỏ chia đôi khu mả Thượng. Từ đó hắt lên phía Trần Phú là những cánh rừng của làng Võ Lâm.

Tháng 6-1931, nhà đương cục lợi dụng sức lao động của các tù chính trị vừa đi làm đường từ Đak Pet về, đã có ý định bắt một chiếc cầu qua sông Đak Bla.[15] Công việc đang tiến hành thì bị hủy bỏ bởi các cuộc đấu tranh của tù chính trị. Vết tích hiện nay vẫn còn một mố đất cao trong khu di tích Ngục Kon Tum. Phải đến một năm sau, chính quyền mới bắc được một chiếc cầu gỗ qua sông (tháng 7-1932) nhưng đến tháng 10 lại bị lũ cuốn trôi mất.[16] Việc đi lại trên sông này vẫn phải dùng phà.

Sau năm 1975

Học sinh diễu hành hưởng ứng Tháng hành động phòng, chống ma túy năm 1997. Ảnh chụp tại ngã tư Phan Đình Phùng - Bà Triệu.

Sau năm 1975, thị xã Kon Tum thuộc tỉnh Gia Lai - Kon Tum gồm 4 phường: Quang Trung, Quyết Thắng, Thắng Lợi, Thống Nhất và 11 xã: Đắk Blà, Đắk Cấm, Đắk La, Đắk Uy, Đoàn Kết, Hòa Bình, Ia Chim, Ia Ly, K'roong, Ngọk Bay, Vinh Quang.

Ngày 10 tháng 10 năm 1978, chia Ia Ly thành 2 xã: xã Ia Ly thuộc Gia Lai, phía Nam sông Sê San và phía Bắc là xã Ya Ly thuộc Kon Tum được chuyển về huyện Sa Thầy quản lý[17]. Ngày 17 tháng 8 năm 1981, chia xã Đoàn Kết thành 2 xã: Đoàn Kết và Chư H'reng; chia xã Đắk Cấm thành 2 xã: Đắk Cấm và Ngọk Réo[18]. Ngày 1 tháng 2 năm 1985, chia xã Đắk La thành 2 xã: Đắk La và Hà Mòn[19]. Đầu năm 1991, thị xã Kon Tum có 4 phường: Quang Trung, Quyết Thắng, Thắng Lợi, Thống Nhất và 13 xã: Chư H'reng, Đắk Blà, Đắk Cấm, Đắk La, Đắk Uy, Đoàn Kết, Hà Mòn, Hòa Bình, Ia Chim, K'roong, Ngọk Bay, Ngọk Réo, Vinh Quang.

Ngày 12 tháng 8 năm 1991, tái lập tỉnh Kon Tum từ tỉnh Gia Lai - Kon Tum, thị xã Kon Tum trở lại là tỉnh lỵ tỉnh Kon Tum[20].

Ngày 24 tháng 3 năm 1994, tách 4 xã: Đắk La, Hà Mòn, Đắk Uy, Ngọk Réo để thành lập huyện Đắk Hà[21]. Ngày 22 tháng 11 năm 1996, chia xã Chư H'reng thành 2 xã: Chư H'reng và Đắk Rơ Wa[22].

Ngày 3 tháng 9 năm 1998, thành lập phường Lê Lợi từ một phần các xã Chư Hreng, Đoàn Kết, Hòa Bình; chia phường Quang Trung thành 2 phường: Quang Trung và Duy Tân[23].

Ngày 8 tháng 1 năm 2004, chia xã Hòa Bình thành xã Hòa Bình và phường Trần Hưng Đạo; chia xã Vinh Quang thành xã Vinh Quang và phường Ngô Mây; chia xã Đoàn Kết thành xã Đoàn Kết và phường Nguyễn Trãi; thành lập phường Trường Chinh từ một phần phường Thắng Lợi và xã Đắk Blà[24].

Ngày 7 tháng 10 năm 2005, thị xã Kon Tum được công nhận là đô thị loại III[25].

Ngày 9 tháng 6 năm 2008, chia xã Ia Chim thành 2 xã: Ia Chim và Đắk Năng[26].

Ngày 10 tháng 12 năm 2008, Hội đồng Nhân dân Tỉnh đã thông qua đề án thành lập thành phố Kon Tum trên cơ sở diện tích và dân số hiện tại của thị xã Kon Tum [27].

Ngày 13 tháng 9 năm 2009, thị xã Kon Tum chính thức trở thành thành phố Kon Tum.[1].

Năm 2013, điều chỉnh mở rộng địa giới hành chính phường Ngô Mây trên cơ sở 1.098,43 ha diện tích tự nhiên và 1.628 nhân khẩu của xã Vinh Quang [28].

Dự kiến năm 2020, các xã Vinh Quang và Đắk Cấm sẽ được nâng cấp thành các phường có tên tương ứng, thành phố Kon Tum phấn đấu trở thành đô thị loại II vào năm 2020.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Kon_Tum_(thành_phố) http://giaophankontum.com/Tin-Tuc-551_LUOC-SU-GIAO... http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/GiaoHoiVN/CacG... //tools.wmflabs.org/geohack/geohack.php?language=v... http://dantri.com.vn/xa-hoi/thanh-lap-thanh-pho-ko... http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?Artic... http://www.caa.gov.vn/hoat-dong-nganh/cong-bo-quy-... http://kontumcity.kontum.gov.vn/ http://www.kontum.gov.vn/news/news.php?pageid=0000... http://www.kontum.gov.vn/pages/lich-su-hinh-thanh.... http://ibst.vn/DATA/nhyen/QCVN%2002-2009%20BXD%20S...